Maria

Maria
Đức Mẹ đồng trinh chịu khổ ải, tranh của Giovanni Battista Salvi da Sassoferrato, thế kỷ 17
Sinhkhông rõ; k. 18 TCN[1]
Mấtkhông rõ; sau k. 30/33 SCN
Phối ngẫuGiuse
Con cáiGiêsu
Cha mẹGioakimAnna

Maria hay Đức Mẹ Maria[2] là một phụ nữ người Do Thái[3] quê ở Nazareth, thuộc xứ Galilea, sống trong khoảng những năm cuối thế kỷ I TCN đến đầu thế kỷ I CN. Theo Tân Ước[4] và kinh Qur'an bà là mẹ của Giê-su. Các Kitô hữu coi Giêsu con trai bà là "Đấng Kitô" (nghĩa là Người được xức dầu), Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể, trong khi người Hồi giáo coi Giêsu là Đấng Messiah,[5] là vị tiên tri quan trọng nhất của Thiên Chúa gửi đến cho dân tộc Israel.

Trong Phúc âm MatthewPhúc âm Luca, Maria được mô tả là một trinh nữ (tiếng Hy Lạp: παρθένος, parthénos.[6] Theo truyền thống, các tín đồ Kitô hữu tin rằng bà mang thai và sinh ra Giêsu là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Người Hồi giáo tin rằng bà được thụ thai theo lời phán của Thiên Chúa. Việc mang thai này xảy ra khi bà - lúc đó còn là một thiếu nữ khoảng 14 tuổi (theo Cựu ước) - đã đính hôn với Giuse, và ông bà đang trong thời gian chờ hoàn thiện nghi thức kết hôn theo tập tục của người Do Thái. Sau khi biết bà Maria có thai, Thánh Giuse liền bỏ đi và trong đêm đó Thánh Giuse nằm mộng thấy Sứ Thần hiện ra và giải thích rằng thai ấy chính là Con Thiên Chúa, bà và Giuse cùng chuyển đến vùng Bethlehem, tại đây bà đã hạ sinh Giêsu.

Những lời đầu tiên mà kinh Tân Ước tường thuật về cuộc đời của bà Maria là biến cố truyền tin, theo đó, sứ thần Gabriel đã hiện ra với bà để báo tin rằng bà được Thiên Chúa chọn để làm Mẹ của Giêsu. Sau này, Tân Ước có một đôi lần nhắc đến người mẹ Giêsu trong một vài sự kiện khác. Một số truyền thuyết trong các giáo hội Kitô giáo còn cho rằng cha mẹ của Maria là Thánh GioakimThánh Anna. Một số nguồn thông tin khác không thuộc quy điển Kinh Thánh có viết về sự qua đời và hồn xác lên trời của bà Maria.

Bà Maria đã sớm được tôn kính trong đức tin của Kitô giáo, đặc biệt là trong Giáo hội Công giáo RômaChính Thống giáo Đông Phương. Họ gọi bà là Đức Mẹ hoặc Đức Bà. Trong Tin LànhHồi Giáo, Maria cũng được nhìn nhận với một vị trí đặc biệt. Trong một thời gian dài, bà Maria là chủ đề được ưa thích trong các tác phẩm hội họa, âm nhạcvăn học Kitô giáo. Ngày lễ mừng kính bà được Công giáo Rôma, Chính Thống Giáo Đông phươngAnh Giáo đồng cử hành là ngày 5 tháng 8. Ngoài ra, còn có thêm rất nhiều ngày lễ suy tôn bà Maria, tính theo những tước hiệu và sự kiện, được Giáo hội Công giáo mừng kính vào các ngày khác trong năm, như các ngày: 8 tháng 9 (Sinh Nhật Đức Mẹ) Giáo hội Công giáo, Chính Thống Giáo, Anh Giáo; 15 tháng 8 (Đức Mẹ hồn xác lên trời) Giáo hội Công giáo.[5]

  1. ^ Pevehouse, James (2010). Spiritual Truths (ấn bản 1). Pittsburgh: Dorrance Publishing Company. tr. 110. ISBN 9781434903044.
  2. ^ tiếng Hebrew: מִרְיָם‎, chuyển tự Mīryām; tiếng Hy Lạp: Μαρία, chuyển tự María; tiếng Anh: Mary; tiếng Copt: Ⲙⲁⲣⲓⲁ, chuyển tự Maria; còn được biết đến với nhiều tước hiệu, danh xưng và kính ngữ khác nhau
  3. ^ Mary in the New Testament, Raymond Edward Brown, Joseph A. Fitzmyer, Karl Paul Donfried, A Collaborative statement by Protestant, Anglican and Roman Catholic scholars, (NJ 1978), tr. 140
  4. ^ The Gospel according to Luke by Michael Patella 2005 ISBN 0-8146-2862-1; tr. 14
  5. ^ a b “LỄ ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP, ngày 27/6”. Giáo phận Đà Lạt. ngày 23 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2013.
  6. ^ from which the New Testament ostensibly quotes, as Almah young maiden. See article on parthénos in Bauer/(Arndt)/Gingrich/Danker, "A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian Literature", Second Edition, University of Chicago Press, 1979, tr. 627.

© MMXXIII Rich X Search. We shall prevail. All rights reserved. Rich X Search